Thuốc mới Aducanumab hứa hẹn chữa khỏi bệnh Alzheimer

Loại thuốc mới, Aducanumab, cho thấy nhiều hứa hẹn trong việc chữa khỏi bệnh Alzheimer
TÍN DỤNG HÌNH ẢNH:  

Thuốc mới Aducanumab hứa hẹn chữa khỏi bệnh Alzheimer

    • tác giả Tên
      Kimberly Ihekwoaba
    • Tác giả Twitter Xử lý
      @iamkihek

    Toàn bộ câu chuyện (CHỈ sử dụng nút 'Dán Từ Word' để sao chép và dán văn bản từ tài liệu Word một cách an toàn)

    Bệnh Alzheimer đã được xác định khoảng 100 năm trước. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 30 năm qua nó mới được công nhận là nguyên nhân hàng đầu gây sa sút trí tuệ và là nguyên nhân chính gây tử vong. Không có cách chữa trị căn bệnh này. Các phương pháp điều trị hiện có chỉ ngăn ngừa, làm chậm và ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Nghiên cứu đang tiến hành về điều trị bệnh Alzheimer tập trung vào chẩn đoán sớm. Một thách thức lớn trong việc phát hiện ra loại thuốc mới là hiệu quả điều trị ở giai đoạn đầu của nghiên cứu không có tác động giống như một thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn.   

    Alzheimer như một căn bệnh 

    Bệnh Alzheimer được phân loại theo mất chức năng trong tế bào não. Điều này có thể dẫn đến việc loại bỏ hoàn toàn các tế bào não. Các chức năng não bị ảnh hưởng bao gồm mất trí nhớ, thay đổi quá trình suy nghĩ cũng như mất khả năng vận động dần dần và chậm. Tổn thương tế bào não này gây ra 60 đến 80% các trường hợp sa sút trí tuệ. 

    Triệu chứng và chẩn đoán 

    Các triệu chứng ở mỗi người là khác nhau, mặc dù có những điểm chung trong hầu hết các tình huống. MỘT chỉ số chung là không có khả năng lưu giữ thông tin mới. Các vùng não chuyên trách xây dựng ký ức mới thường là nơi xảy ra tổn thương ban đầu.  

     

    Theo thời gian, sự lây lan của bệnh gây ra sự mất chức năng khác. Các triệu chứng điển hình bao gồm mất trí nhớ gây cản trở các hoạt động hàng ngày, khó lập kế hoạch và đưa ra giải pháp, thách thức trong việc nhận biết các mối quan hệ đặc biệt và hình ảnh trực quan, tránh các hoạt động xã hội, lo lắng và mất ngủ. Có sự suy giảm chức năng nhận thức theo thời gian. Các cá nhân sẽ cần hỗ trợ trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày. Những trường hợp nặng phải chăm sóc tại giường. Việc không hoạt động và giảm khả năng vận động này làm tăng nguy cơ nhiễm trùng gây bất lợi cho hệ thống miễn dịch. 

     

    Không có phương pháp trực tiếp nào để chẩn đoán bệnh Alzheimer. Với sự hỗ trợ của bác sĩ thần kinh, nhiều xét nghiệm khác nhau được thực hiện. Cần phải có tiền sử bệnh và lý lịch của bệnh nhân - đây là yếu tố dự báo nguy cơ mắc bệnh Alzheimer. Gia đình và bạn bè phải đối mặt với việc xác định bất kỳ thay đổi nào trong cách suy nghĩ và kỹ năng. Xét nghiệm máu và quét não cũng được sử dụng để xác minh dấu vết của chứng mất trí nhớ. Cuối cùng, các cuộc kiểm tra về thần kinh, nhận thức và thể chất sẽ được tiến hành. 

    Sự biến đổi của não với bệnh Alzheimer 

    Bệnh Alzheimer biểu hiện dưới dạng đám rối (còn gọi là đám rối tau) hoặc mảng bám (mảng beta-amyloid). Rối "can thiệp vào các quá trình quan trọng." Mảng bám là cặn lắng trên một khu vực rải rác có thể gây độc cho não ở mức độ cao. Trong cả hai trường hợp, nó cản trở việc truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh dưới dạng khớp thần kinh. Luồng tín hiệu trong não cũng chịu trách nhiệm về quá trình suy nghĩ, cảm xúc, khả năng vận động và kỹ năng. Sự vắng mặt của các khớp thần kinh dẫn đến cái chết của tế bào thần kinh. Beta-amyloid cản trở dòng chảy của các khớp thần kinh. Trong khi các rối tau ngăn cản các chất dinh dưỡng và các phân tử quan trọng bên trong tế bào thần kinh. Quá trình quét não của những người bị ảnh hưởng bởi bệnh Alzheimer thường cho thấy hình ảnh các mảnh vụn từ cái chết của tế bào thần kinh và tế bào, tình trạng viêm và co rút các vùng não do mất tế bào.   

    Điều trị bằng dược phẩm – Aducanumab và AADva-1 

    Các phương pháp điều trị bệnh Alzheimer thường nhắm vào beta-amyloid. Nó là thành phần chính của việc phát triển mảng bám. Có hai enzyme chịu trách nhiệm tiết ra beta-amyloid; beta-secretase và gamma-secretase. Mất trí nhớ liên quan đến bệnh Alzheimer xảy ra do sự tích tụ của các tam giác beta-amyloid và tau. Tuy nhiên, phải mất từ ​​15 đến 20 năm mới có tác động đáng kể đến trí nhớ. Điều quan trọng là can thiệp vào các quá trình tham gia vào việc hình thành các mảng beta-amyloid. Điều này bao gồm việc ngăn chặn hoạt động của enzyme trong việc tạo mảng bám, giảm sự hình thành các tập hợp beta-amyloid và sử dụng kháng thể để phá vỡ beta-amyloid trên não. Các nghiên cứu trước đây cho thấy hầu hết các loại thuốc trong thử nghiệm giai đoạn 3 đều không có mối tương quan giữa việc giảm lượng protein beta-amyloid và sự chậm trễ trong quá trình suy giảm nhận thức.  

     

    Tổ chức công nghệ sinh học, Sinh học Idec đã thành công trong việc vượt qua giai đoạn một của thuốc aducanumab. Nghiên cứu được thực hiện ở giai đoạn một nhằm kiểm tra khả năng dung nạp và độ an toàn của thuốc. Các thử nghiệm giai đoạn một diễn ra trên một nhóm nhỏ người và trong khoảng thời gian từ sáu tháng đến một năm. Tình trạng sức khỏe của những người tham gia thử nghiệm giai đoạn một bao gồm những người có beta-amyloid trong não và những người khác trải qua giai đoạn đầu của bệnh Alzheimer.  

     

    Aducanumab là một kháng thể đơn dòng chống lại sự tích tụ beta-amyloid. Kháng thể hoạt động như một thẻ và báo hiệu cho hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào beta-amyloid. Trước khi điều trị, chụp PET giúp định lượng sự hiện diện của protein beta-amyloid. Người ta đưa ra giả thuyết rằng việc giảm mức độ beta-amyloid sẽ cải thiện khả năng nhận thức ở cá nhân. Dựa trên kết quả, người ta kết luận rằng aducanumab là thuốc phụ thuộc vào liều lượng. Tăng liều có tác dụng lớn hơn trong việc giảm mảng bám beta-amyloid. 

     

    Một trong những sai sót của cuộc thử nghiệm thuốc này là không phải bệnh nhân nào cũng có dấu hiệu hình thành beta-amyloid trong não. Không phải ai cũng trải nghiệm lợi ích của thuốc. Ngoài ra, không phải tất cả bệnh nhân đều bị suy giảm nhận thức. Các cá nhân có hầu hết các chức năng của họ còn nguyên vẹn. Sự mất chức năng nhận thức có liên quan đến cái chết của các tế bào thần kinh. Các liệu pháp sử dụng kháng thể nhằm mục đích tiêu diệt sự phát triển của mảng bám hơn là tái tạo các tế bào thần kinh bị mất.  

     

    Phản hồi đầy hứa hẹn của thử nghiệm giai đoạn một đã vạch trần các liệu pháp khác. Mặc dù thuốc đã hỗ trợ làm giảm số lượng mảng bám nhưng Aducanumab là liệu pháp kháng thể đầu tiên nhằm mục đích làm chậm quá trình suy giảm nhận thức. 

     

    Điều quan trọng cần chỉ ra là cỡ mẫu của thử nghiệm giai đoạn một là tương đối nhỏ. Do đó, thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba có ý nghĩa quan trọng đối với số lượng bệnh nhân lớn hơn. Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba sẽ kiểm tra tính hiệu quả của thuốc trên quần thể lớn. Một mối quan tâm khác là chi phí gần đúng của thuốc. Bệnh nhân Alzheimer dự kiến ​​sẽ chi khoảng 40,000 USD mỗi năm cho việc điều trị. 

     

    AADva-1 kết hợp một vắc xin hoạt tính để kích hoạt phản ứng miễn dịch với protein tau. Kết quả là sự phân hủy protein. Thử nghiệm giai đoạn một bao gồm 30 bệnh nhân có biểu hiện bệnh Alzheimer ở ​​mức độ nhẹ đến trung bình. Mỗi tháng tiêm một liều duy nhất. Tại đây, chúng tôi đã kiểm tra tính an toàn, khả năng dung nạp và phản ứng miễn dịch của thuốc. Kể từ tháng 2016 năm 185, thử nghiệm giai đoạn hai đã bắt đầu. Nó liên quan đến khoảng 1 bệnh nhân. Việc tiêm thuốc được thực hiện để kiểm tra chức năng nhận thức, độ an toàn và phản ứng miễn dịch ở cá nhân. Thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba đang được tiến hành. Giai đoạn này được điều chỉnh để đảm bảo rằng ADDva-XNUMX có thể ngăn chặn sự hình thành các tập hợp protein tau.  

    Tag
    Phân loại
    Trường chủ đề